By TRẦN PHƯƠNG
Chân dung Linh mục Alexandre de Rhodes và trang đầu cuốn sách Phép giảng tám ngày của ông. Cuôn sách này đã gây nhiều tranh cãi truyền kiếp về việc ông chỉ trích đạo Phật, Khổng và Lão. Nguồn ảnh: BnF Gallica.
Đầu thế kỷ 17, những cơn gió trên biển đã đưa người châu Âu đến với vùng Viễn Đông xa xôi. Người Bồ Đào Nha gần như nắm trọn khu vực giàu có về sản vật này. Ngoài việc mua bán hàng hóa, những thương thuyền của họ còn chở theo những nhà truyền giáo đang khao khát được rao giảng tin mừng.
Linh mục Alexandre de Rhodes cũng đã theo những thương thuyền này đến vùng Viễn Đông xa lạ. Hành trình 27 năm đó đã ghi tên tuổi ông vào sử sách, nhưng cũng để lại nhiều tranh cãi về công lao, những phát ngôn tạo nên sự thù hằn truyền kiếp.
Lớn lên ở Avignon
Ngày 15/3/1591, Alexandre de Rhodes được sinh ra trong một gia đình thương nhân có cha là người gốc Do Thái và mẹ là người gốc Ý, sinh sống tại Avignon, khi đó là vùng đất của Giáo hoàng, nay thuộc miền Nam nước Pháp.
Sự giao tế thân thiết giữa gia đình de Rhodes với những giáo sĩ Dòng Tên đã ảnh hưởng nhiều đến nghề nghiệp tương lai của cậu thanh niên ham quan sát. Cả cậu em trai của de Rhodes sau này cũng gia nhập Dòng Tên.
Lớn lên, de Rhodes học trung học ở một trường của các giáo sĩ tại quê nhà. Năm 1612, anh theo đuổi con đường tôn giáo tại học viện San Andreas (Roma), nơi anh có thể dễ dàng xin vua Bồ Đào Nha đi truyền giáo ở phương Đông.
Chuyển đến Roma, trong lòng de Rhodes lúc nào cũng nung nấu hoài bão giong buồm đến vùng Viễn Đông. Tháng 4 năm 1614, trong ngày đầu tiên phát nguyện, anh đã viết thư cho người đứng đầu Dòng Tên đề cập về khát khao truyền giáo nơi viễn xứ.
Sau nhiều lần đề nghị, tháng Tư năm 1618, không lâu sau khi de Rhodes trở thành linh mục, anh được phái đến Trung Quốc và Nhật Bản.
Muốn đến được Nhật Bản, de Rhodes phải đến được Macao, nơi Bồ Đào Nha đã lấy làm thuộc địa và biến nơi đây thành một thương cảng quan trọng. Tại Macao, các giáo sĩ Dòng Tên đã mở trường thần học và từ nơi này họ sẽ gửi các giáo sĩ đi khắp Viễn Đông.
Các giáo sĩ nghĩ rằng nếu Trung Quốc hưởng ứng đạo Cơ Đốc thì công cuộc truyền giáo của họ ở các nước phụ thuộc như Tonkin (Đàng Ngoài), Siam (Xiêm, tức Thái Lan ngày nay) sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng công cuộc truyền đạo ở đất nước rộng lớn này cũng lắm gian truân khi Tam giáo (Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo) đã ăn vào máu thịt của dân chúng. Phong tục của người Trung Hoa lúc đó khó hòa nhập với các quy tắc cứng nhắc của Cơ Đốc giáo.
Ở Nhật Bản, chế độ Mạc Phủ Tokoguwa bắt đầu cấm đạo vào năm 1614. Đây là khoảng thời gian mà Hội An đón những người Nhật Bản theo Cơ Đốc giáo đến trú ẩn và hình thành nên cộng đồng người Nhật ở đây. Thương nhân Trung Hoa cũng chiếm một con số đáng kể lúc bấy giờ. Những thương nhân Bồ Đào Nha cũng đã đến Hội An và đề nghị các giáo sĩ Dòng Tên ở Ma Cao mở hoạt động truyền giáo ở đó.
Lúc bấy giờ, An Nam đã chia thành xứ Đàng Trong và xứ Đàng Ngoài. Thực quyền cai trị lúc đó thuộc về hai dòng họ đang thù ghét lẫn nhau, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Hoạt động thương mại với người Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha và Hà Lan) ở An Nam lúc đó vẫn còn rất sôi nổi. Người châu Âu chỉ đến nước ta để mua bán chứ chưa chiếm đóng như họ đã làm với Java (thuộc Indonesia), Malacca (thuộc Malaysia), Philippines, hay Ma Cao.
Tại châu Âu, các giáo sĩ muốn đến châu Á, ngoại trừ Philippines, đều phải khởi hành từ Lisbon (Bồ Đào Nha) rồi đến Goa, một thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ. Từ Goa, họ mới theo thương thuyền đến vùng Viễn Đông. Đây là một thỏa thuận giữa Giáo hoàng và Bồ Đào Nha rằng nước này sẽ trung chuyển, bảo vệ, chu cấp tài chính cho những giáo sĩ, đổi lại, Giáo hội Công giáo sẽ thừa nhận quyền sở hữu của họ từ châu Phi kéo dài sang tận vùng Viễn Đông, đồng thời, việc Giáo hội bổ nhiệm các giáo sĩ và giám mục ở các vùng lãnh thổ này cũng phải được họ chấp thuận. Sự vụ này được biết đến với tên gọi là hệ thống padroado, khi đó Giáo hoàng làm trung gian để phân chia chủ quyền thuộc địa giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 15.
Từ Goa đến Macao
Tháng Bảy năm 1619, de Rhodes khởi hành từ Lisbon đến được Goa. Vì tình hình cấm đạo gay gắt ở Nhật Bản, anh được lệnh kiên nhẫn chờ đợi.
Ba năm rưỡi ở Goa đã mở rộng tầm hiểu biết của người thanh niên lần đầu tiên rời khỏi châu Âu. De Rhodes chứng kiến các giáo sĩ đã bỏ rơi tín đồ và các thầy giảng bản địa ngay sau lễ rửa tội. Anh nhận thấy những hoạt động từ thiện của các giáo sĩ không thành tâm, cốt chỉ để thu hút người bản địa cải đạo. Anh cũng phản đối việc yêu cầu người bản địa từ bỏ phong tục cổ xưa, như chuyển sang mặc trang phục của Bồ Đào Nha. Những thứ giống như vậy đã tạo ra sự phân biệt giữa người theo đạo và người ngoại đạo.
Tại Goa, de Rhodes đã hiểu được sức mạnh ngôn ngữ bản địa trong việc truyền giáo.
Chuyện là sau ba tháng ở Goa, de Rhodes lâm bệnh nặng và được chuyển ra khỏi thành phố khoảng ba dặm đường. Tại đó, ông gặp được một giáo sĩ đồng hương tên Etienne Crucius, người thông thạo tiếng địa phương còn hơn là tiếng mẹ đẻ của mình. Ông Crucius được dân chúng đón nhận khi xuất bản một số cuốn sách, thơ văn viết bằng ngôn ngữ bản địa.
Ở Goa, de Rhodes đã mô tả về một cuộc truy lùng những đứa trẻ không có cha nhằm rửa tội cho chúng là “một cuộc truy bắt” (de Rhodes dùng từ chasse trong tiếng Pháp có nghĩa là truy đuổi, truy bắt)[1], vì tin rằng những đứa trẻ này có thể bị nguyền rủa nếu không được rửa tội. Ông nói rằng đó là “một cuộc săn bắn khá thành công” khi sáu trăm đứa trẻ không cha được rửa tội trong ngày Thánh lễ Phaolô.
Lúc này, những giáo sĩ Dòng Tên đã có mặt ở xứ Đàng Trong. Họ được chúa Nguyễn chào đón. Năm 1620, đã có bảy giáo sĩ Dòng Tên đến Đàng Trong, bốn người ở Hội An, ba người ở Nước Mặn (cách Quy Nhơn khoảng 20 cây số).
Tháng Tư năm 1622, de Rhodes lên đường đi Macao. Đây lại là một hành trình kéo dài nữa. Tàu đi dọc theo đường bờ biển của Ấn Độ, đến Kochi, miền Tây Nam Ấn Độ, vị thuyền trưởng qua đời. De Rhodes lên một con thuyền khác đến Cape Comorin, qua đảo Ceylon (Sri Lanka ngày nay) để đến thành phố Malacca của bán đảo Malacca. Vì thời tiết không thuận lợi, de Rhodes ở lại thành phố này trong tám tháng. Tại Malacca, ông đã cùng một giáo sĩ người Bồ Đào Nha rửa tội cho khoảng 2.000 người.
Vào cuối tháng 5/1623, sau bốn năm rưỡi rời châu Âu, de Rhodes cuối cùng đã đến được đại bản doanh của Dòng Tên ở Macao. Lúc này, ông đã 30 tuổi.
Ở Ma Cao, de Rhodes rất thích thú quan sát người Tàu, nam thắt bím tóc và nữ đi trên đôi bàn chân rất nhỏ. Gạo và đặc biệt là trà là những sản vật gây ấn tượng mạnh với ông.
Tuy nhiên, ông không mấy thiện cảm khi quan sát người Tàu thực hành Tam giáo (Phật giáo, Đạo Giáo và Khổng Giáo). De Rhodes thẳng thừng gọi đó là những tôn giáo của mê tín, tà thuật và súng bái cá nhân.
“Cho đến ngày hôm nay, [người Tàu] vẫn còn sống trong tăm tối. Họ rất kém hiểu biết về thứ quan trọng nhất trong đời sống là Thiên Chúa và cách để phụng sự Người”,[2] ông mô tả trong cuốn sách xuất bản năm 1653 ở Paris.
De Rhodes học tiếng Việt
Mong ước truyền giáo ở Nhật Bản của de Rhodes bất thành vì đạo Cơ Đốc bị truy bức tàn bạo vào lúc ấy. Ông được giao một sứ mệnh mới là đến Cochinchina, tức xứ Đàng Trong, để truyền giáo.
Vùng đất giàu sản vật Đàng Trong khi ấy do chúa Nguyễn Phúc Nguyên cai trị, lãnh thổ kéo dài từ sông Gianh vào Nam, bao gồm phần đất phía Nam của Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, và các tỉnh cũ của vương quốc Champa (bao gồm Quy Nhơn và Phú Yên), với thủ phủ đặt ở Huế.
Tên Cochinchina có lẽ xuất phát từ các thương nhân Nhật Bản gọi người bản địa ở Hội An là “Coci”, từ tên Giao Chỉ ngày xưa. Sau đó, người Bồ Đào Nha đọc thành “Cochi” nhưng để phân biệt với địa danh Cochin của Ấn Độc thì họ thêm vào “Cina” nữa nhằm chỉ vùng đất này ở gần Trung Quốc.
Tuân lệnh bề trên, tháng 12 năm 1624, de Rhodes cùng năm người Bồ Đào Nha và một người Nhật, rời Macao và cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng) sau 19 ngày lênh đênh trên biển.
De Rhodes được phái về một cơ sở của Dòng Tên thành lập vào năm 1623 tại “Thanh Chiem” (hay Dinh Chàm), cách Hội An khoảng năm cây số về hướng Đà Nẵng.
Tại đây, ông đã làm việc cùng ba giáo sĩ khác là António de Fontes, António Dias nhưng quan trọng hơn cả là người mà thành phố Đà Nẵng gần đây muốn đặt tên đường cùng với Alexandre de Rhodes là ông Francisco de Pina.
“Chúng tôi đã gặp Fr. de Pina ở đó, ông ấy rất thành thạo tiếng bản địa… Về phía tôi, tôi xin thú thật rằng lần đầu khi tôi đến xứ Đàng Trong và nghe người ta nói chuyện, đặc biệt là những phụ nữ, tôi thấy như đang nghe chim hót vậy, và tôi đã mất hết hy vọng để học nói thứ tiếng này. Tất cả các từ đều độc âm, ý nghĩa của chúng thay đổi tuỳ theo âm điệu khi người ta nói. Chỉ một âm tiết duy nhất, như “dai” chẳng hạn, lại có đến 23 nghĩa khác nhau tùy theo cách mà nó được phát âm, có nghĩa là nói cũng như hát vậy”,[3] de Rhodes kể về kí ức những ngày đầu tiên đến nơi ngày nay là Việt Nam.
Việc phát âm sai âm điệu (dấu câu mà chúng ta biết như ngày nay) trong tiếng Việt dễ dẫn đến những tai hại khó lường.
De Rhodes thuật lại rằng một linh mục của ông nhờ đầu bếp đi mua “cá”, nhưng do phát âm sai dấu khiến người đầu bếp mang về nhà một giỏ “cà” (cà tím). Một lần khác tai hại hơn, một vị linh mục nhờ người giúp việc nhà đi “chặt tre” nhưng phát âm sai thành “chặt trẻ”.
Ông de Pina là người đã dạy de Rhodes học tiếng Việt. De Pina là một giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha, hơn de Rhodes tám tuổi. Ông đến Đàng Trong vào năm 1617 và đã rửa tội cho Minh Đức Vương Thái Phi, vợ lẽ của chúa Nguyễn Hoàng. Rất có khả năng là De Pina đã cùng với một giáo sĩ người Ý là Cristoforo Borri đã cố gắng Latin hóa tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 1620.
Để phân biệt các âm điệu tạo nên những ý nghĩa khác nhau, de Rhodes có lẽ đã tận dụng khả năng ngôn ngữ của mình trong tiếng Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp, đều có các dấu câu được sử dụng trong tiếng Việt ngày nay và phần lớn đặt ở 5 nguyên âm (a, e, o, u và i).
Ngoài de Pina, de Rhodes còn học tiếng Việt từ một cậu bé người An Nam. Mặc dù không biết tiếng Latin những cậu bé đã được de Rhodes dạy cách đọc các âm tiết latin, không những biết đọc mà còn biết viết những lá thư của các nhà truyền giáo chỉ trong ba tuần lễ. Vì ngưỡng mộ de Rhodes, cậu bé về sau được rửa tội và lấy tên là Raphael de Rhodes. Raphael đã thực hiện sứ mệnh truyền giáo ở Lào. Người này sau đó trở nên rất giàu có.
Ông de Pina chưa hoàn thành sứ mệnh của mình ở Đàng Trong thì đã qua đời vì đuối nước vào năm 1625. Mất đi một nhà truyền giáo thành thạo tiếng Việt như ông là một mất mát lớn của các giáo sĩ.
Cũng vào lúc này, các giáo sĩ còn chịu thêm một khó khăn khác là chúa Nguyễn Phúc Nguyên, kế vị chúa Nguyễn Hoàng từ năm 1613, đã giảm hứng thú đối với đạo Cơ Đốc. Chúa thất vọng vì trước đó nghĩ rằng người Bồ Đào Nha sẽ mang sản vật và vũ khí đến Đàng Trong nhằm giúp ông chống Đàng Ngoài. Nhân dịp này, những người chống đạo Cơ Đốc lại vu cáo cho đạo này là vong ơn bội nghĩa khi xúi dục tín đồ từ bỏ tục thờ cúng tổ tiên. May mắn, các giáo sĩ đã thuyết phục được chúa Nguyễn cho phép họ ở lại và tiếp tục truyền đạo.
Một vấn đề nữa mà chúa không hài lòng là những tín đồ An Nam khi muốn chứng minh niềm tin vào chúa họ đã đeo ảnh, thánh giá, tràng hạt trên cổ của mình. Việc này làm nhiều người sợ hãi. Tuy nhiên, các giáo sĩ đã khéo léo thuyết phục họ thôi không mang những thứ đó nữa để tránh bị phân biệt đối xử và tách biệt với cộng đồng.
De Rhodes truyền đạo ở Đàng Ngoài
De Rhodes nhận lệnh từ Ma Cao đi Đàng Ngoài nhưng ông không thể khởi hành từ Đàng Trong vì dễ bị nghi là nội gián của chúa Nguyễn. De Rhodes phải trở về Ma Cao rồi mới đi Tonkin.
Sau khi chờ đợi ở Ma Cao được chín tháng, de Rhodes cùng Pêro Marques, một giáo sĩ nửa gốc Bồ Đào Nha nửa gốc Nhật Bản, cập bến Cửa Bạng (Ba Làng, Thanh Hoá) vào ngày 19/3/1627.
Marques không nói tiếng Việt, nhiệm vụ chính của anh là phục vụ những tín đồ người Nhật ở Đàng Ngoài. Còn de Rhodes vì thông thạo tiếng Việt nên nhận nhiệm vụ truyền đạo cho dân chúng.
Chúa Trịnh cai trị ở Đàng Ngoài, lãnh thổ từ sông Gianh trở ra, bao gồm một phần đất Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Tonkin có thủ đô là Thăng Long (sau đổi tên thành Hà Nội).
Khi hai người đến Cửa Bạng, de Rhodes đã khéo léo sử dụng tiếng Việt của mình để thu hút dân chúng. Ông nói mình có một viên ngọc quý mà người nghèo nhất cũng có thể mua. Khi dân chúng muốn được xem thì ông bảo chỉ có thể nhìn thấy viên ngọc đó bằng con mắt tâm linh mà thôi, nó là một thứ đạo chân thật nhất mà người ta sẽ được hạnh phúc suốt đời.
Trong hai tuần ở đó, ông đã rửa tội cho 32 người, trong đó có một ông đồ và một pháp sư nổi tiếng. De Rhodes để lại một bản sao các lời cầu nguyện bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và giao quyền quản lý cho những tín đồ đầu tiên ở đây để họ tự phát triển giáo sứ.
Không lâu sau đó, de Rhodes và Marques vào gặp chúa Trịnh Tráng. Hai người được chúa Trịnh đón tiếp chu đáo và cho phép truyền đạo ở Đàng Ngoài cũng với mong muốn người Bồ Đào Nha sẽ tiếp tế cho lãnh thổ của ông.
Không bao lâu sau khi đến, de Rhodes đã cải đạo cho một vị sư 85 tuổi, đứng đầu các vị tăng ở Thanh Hoá. Chính người này đã hiến đất để xây nhà thờ đầu tiên và giúp de Rhodes dịch cũng như viết lại giáo lý bằng chữ viết lúc bấy giờ. Nhưng quan trọng hơn hết, de Rhodes đã rửa tội cho một người chị hoặc em gái của chúa Trịnh Tráng và con gái của cô ta. Người này và con của mình đã giúp de Rhodes rất nhiều trong công cuộc truyền giáo ở Bắc Kỳ. Người con gái đã rất rành chữ Nho nên đã sáng tác các bài thơ liên quan đến Thiên Chúa và được dân chúng hát ca khắp nơi.
Cải đạo cho các thành viên hoàng tộc, nhà sư, nhà nho, pháp sư, các vị quan là một trong những mục tiêu truyền đạo của de Rhodes. Vì đó là những người được công chúng kính nể vì học thức và sự danh giá của họ. Công chúng sẽ dễ dàng tin hơn vào Thiên Chúa nếu thấy những người này cải đạo. Hơn nữa, họ có thể sẽ trở thành tông đồ giúp de Rhodes phát triển đạo khi ông rời Tonkin.
Khi mọi việc đang thuận lợi thì de Rhodes bị chỉ trích nặng nề. Việc nhiều người cải đạo sang Cơ Đốc giáo đã làm xáo trộn đời sống xã hội vốn có. Các nhà sư giận dữ khi một số ngôi chùa của họ bị bỏ trống, các bà vợ lẽ bị bỏ rơi khi chồng của họ cải đạo, các thái giám sợ họ sẽ mất việc một khi nhà vua được rửa tội. Việc rửa tội cho những người sắp lìa đời của de Rhodes khiến ông bị cáo buộc là một pháp sư giết người bằng hơi thở. Tệ hơn nữa, de Rhodes và Marques còn bị chúa cấm truyền đạo sau khi một vị sư vì mất việc mà chạy lên Cao Bằng hiệp lực với tàn dư của nhà Mạc. Vì muốn giữ mạng sống sau khi bị chúa Trịnh Tráng bắt, người này đã bịa ra kế hoạch của de Rhodes là liên minh với Cao Bằng và Đàng Trong để chống chúa.
Tháng Ba năm 1629, chúa Trịnh Tráng đã ban cho hai người 20 đồng tiền vàng, vải vóc và trục xuất họ vào Đàng Trong rồi từ đó để đi về Ma Cao. Chúa Trịnh cho bố trí một con thuyền nhỏ với 32 thuyền viên và thuyền trưởng. Hai Cơ Đốc nhân được phép đi theo de Rhodes và hai thầy giảng ở lại Tonkin tiếp tục công việc rửa tội cho những người khác.
Trên đường vào Đàng Trong, de Rhodes đã tận dụng thời gian này để rửa tội cho những người khác. Sau sáu tháng họ rời Tonkin, đoàn của ông đã rửa tội cho khoảng 600 người.
Vào lúc này, một con tàu Bồ Đào Nha cập bến Nghệ An cùng với hai nhà truyền giáo khác. Chúa Trịnh Tráng cho phép tàu này ra Thăng Long. Nhân cơ hội đó, de Rhodes và Marques lên con tàu này ra Tonkin vào tháng 11 năm 1629.
Trong sáu tháng đoàn giáo sĩ ở Tonkin, chúa đã làm lơ để họ giảng đạo và rửa tội cho dân chúng. Vào tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh yêu cầu bốn nhà truyền giáo phải theo tàu rời khởi Tonkin.
Trước khi rời đi, de Rhodes đã nghĩ cách để các tín đồ tự phát triển đạo Cơ Đốc ở Tonkin. Ông đã lập ra ba lời thề dành cho những người thân nhất với ông, các thầy giảng thề rằng họ sẽ không kết hôn cho đến khi các nhà truyền giáo trở lại; đóng góp toàn bộ tài sản của mình thành một quỹ chung; và sẽ tuân lệnh người sẽ được cử ra trong số họ để điều hành cộng đồng bán Cơ Đốc giáo này.
Sau hơn ba năm de Rhodes ở Đàng Ngoài, ông đã cải đạo sang Cơ Đốc cho 5.602 người. Sau 10 tháng ông rời khỏi Tonkin, các thầy giảng đã rửa tội cho khoảng 3.340 người và dựng lên 20 nhà thờ.
Bốn lần trở lại Đàng Trong
Năm 1639, chúa Nguyễn Phúc Lan ở Đàng Trong buộc tất cả giáo sĩ và Kitô hữu Nhật Bản rời khỏi Cochinchina, vì chúa nghi ngờ sự trung thành của họ khi có một số người Nhật đã hiệp lực với em trai ông là Nguyễn Phúc Anh chống lại ông.
Lúc này, sau 25 năm Cơ Đốc giáo được phổ biến, đất Đàng Trong đã có khoảng 15.000 tín đồ cùng với khoảng 20 nhà thờ.
Tháng Hai năm 1640, mười năm sau khi de Rhodes học tiếng Việt ở Đàng Trong, ông đến Đà Nẵng để thay thế cho những giáo sĩ bị trục xuất. Ông khéo léo thông qua một thuyền trưởng người Nhật để gặp chúa Nguyễn Phúc Lan (chúa Nguyễn đời thứ ba, trị vì từ năm 1635). Bằng những món quà đắt tiền dâng chúa, de Rhodes được ở lại ít nhất là cho đến ngày chiếc tàu đưa ông đến đây trở lại Ma Cao.
Sau 35 ngày ở lại kinh đô, de Rhodes gặp lại Minh Đức Vương Thái Phi, người mà ông de Pina đã rửa tội. De Rhodes rửa tội cho một số người của hoàng tộc ở đây cùng với một vị sư có tiếng rồi vào Hội An.
Ở Hội An, de Rhodes cố tình chờ cho chiếc tàu của ông trở về Ma Cao thì ông bắt đầu giảng đạo. Biết chuyện, quan Tổng trấn Quảng Nam Ông Nghè Bộ giận lắm vì dám xem thường lệnh vua. De Rhodes phải mua một con thuyền nhỏ trở về Ma Cao vào ngày 20/9/1640.
Ba tháng sau, de Rhodes theo tàu Bồ Đào Nha trở lại Đàng Trong lần thứ hai cùng với giáo sĩ Benedetto de Mattos. Lần này, để tránh kinh động đến Ông Nghè Bộ, de Rhodes đi thẳng vào Quảng Nam để thăm các tín đồ.
Trên đường trở lại Đà Nẵng, nghĩ rằng Ông Nghè Bộ đã để yên cho ông vì thế ông và vị giáo sĩ kia tách ra theo hai hướng khác nhau. De Rhodes đi Quảng Nam và Trấn Biên (Phú Yên). De Mattos đi Quảng Bình và Bố Chính. Trong hai tháng, de Rhodes đã rửa tội cho 1.355 người và de Mattos đã rửa tội cho 572 người.
Khi ông trở về Thành Chiêm thì người đồng môn của ông đã trở về Ma Cao. Ông Nghè Bộ trục xuất de Rhodes ngay lập tức. De Rhodes lên tàu về Manila ngày 2/7/1641.
Tháng Một năm 1642, ông lại quay lại Đàng Trong lần thứ ba. Lần này, ông làm hòa với Ông Nghè Bộ và tặng nhiều đồng hồ cho chúa Nguyễn Phúc Lan. Ban đầu, chúa cho phép ông ở lại sau khi tàu rời đi nhưng sau đó lại đổi ý, buộc ông phải rời đi cùng lúc với con tàu. Nhưng lần này, ông lại không tuân lệnh mà lén ở lại suốt 19 tháng.
Trong thời gian này, ông rửa tội cho khoảng 1.000 người ở nhiều nơi. Đi cùng ông lúc này có khoảng 10 thầy giảng, trong đó có Andrew Tre ở Phú Yên, Ignatius Nhuan ở Quảng Trị và Vincent ở Quảng Nghĩa. Tất cả là đều người An Nam nhưng dùng tên thánh.
Trước lúc rời đi, de Rhodes đã tổ chức hội bán Cơ Đốc ở đây như ông đã làm ở Tonkin. Ông cho 10 thầy giảng cùng thề ba lời thề và cử Ignatius đứng đầu. De Rhodes chia họ ra làm hai nhóm, một nhóm năm người do thầy giảng Damasus lãnh đạo hai tỉnh phía Nam, và Ignatius cùng bốn người khác hoạt động ở hai tỉnh phía Bắc.
De Rhodes trở về Ma Cao và ở đó trong bảy tháng trước khi ông trở lại Đàng Trong lần cuối cùng vào tháng Ba năm 1644. Lần này, ông cẩn thận hơn khi chỉ liên lạc bí mật nhất có thể với các tín đồ. Những tín đồ ở Đàng Ngoài muốn mời ông gặp họ khi hay tin ông đến gần sông Gianh. De Rhodes đã gửi Ignatius Nhuan đi gặp họ để tránh rắc rối. Ignatius Nhuan là một cựu nhà nho, ông bị Tống Thị, một người được chúa Nguyễn Phúc Lan rất mực sủng ái, ghét cay ghét đắng vì dám chống lại bà.
Mọi chuyện xấu đi vào tháng Bảy năm 1644, Ignatius bị lệnh cho xử tử vì dám giúp de Rhodes chống lại các nhà sư trong một cuộc tranh luận về tôn giáo. Rhodes gặp khó khăn trong tranh luận khi các nhà nho, nhà sư đề cập đến các trích dẫn trong sử sách của họ, nên trong một lần tranh luận Ignatius đã giúp de Rhodes thắng các nhà sư.
Không tìm thấy Ignatius, lính của Ông Nghè Bộ đành bắt Andrew Tre khi ấy mới 19 tuổi về chém đầu. Andrew Tre trở thành thánh tử đạo đầu tiên ở Đàng Trong. Suốt nhiều tháng sau đó, de Rhodes trốn cùng các thầy giảng của mình trên một chiếc tàu đợi đêm đến mới hoạt động. Ông hai lần bị bắt nhưng đều được thả ra.
Trên đường đi tàu ra Quảng Bình vào tháng Sáu năm 1645, de Rhodes và các thầy giảng bị lính Đàng Trong bắt đem về giam ở Hội An vì tình nghi là tay sai của chúa Trịnh. Ông bị tuyên án tử hình nhưng được đổi thành trục xuất vĩnh viễn, vì một nhà nho từng là thầy của chúa Nguyễn thuyết phục rằng de Rhodes chỉ giảng kinh thánh thì không phạm tội gì cả.
Nhưng hai thầy giảng là Ignatius và Vincent bị chém đầu vì không chịu từ bỏ đạo. Trước khi chém đầu hai người, chúa Nguyễn nói: “Tại làm sao mà các ngươi không chịu từ bỏ thứ đạo mà dạy người ta khinh khi và ghét bỏ cha mẹ? Các ngươi không biết có hàng nghìn người đã bỏ mạng ở Nhật Bản chỉ vì họ không chịu từ bỏ con đường của người Bồ Đào Nha?”[4]
Thoát chết, de Rhodes lên tàu trở về Ma Cao vào ngày 3/7/1645 và vĩnh viễn không trở lại An Nam nữa.
De Rhodes nói gì về Phật Lão Khổng
Lần đầu tiên tới Tonkin, de Rhodes đã ngạc nhiên về uy tín của Phật giáo ở đây còn vượt xa so với ở Trung Quốc. Ông dành sự ngưỡng mộ đối với lòng tin vào đạo Phật của dân chúng. Ông ngưỡng mộ khi thấy ai cũng đều đặn hai lần mỗi tháng đến chùa thành tâm cúng bái cùng với nhiều lễ vật, kể cả những người nghèo khổ nhất.
Tuy nhiên, đối với Phật giáo cũng như đạo Lão và đạo Khổng, de Rhodes hết sức lên án. Ông nói rằng mình không ngờ rằng Việt Nam lại nhập khẩu những thứ tôn giáo mê tín và lầm lạc của nước Tàu.
“Ngày hôm nay, ở kinh đô của Tonkin có vô số ngôi chùa với những bức tượng. Không có làng quê nhỏ bé nào mà không có lấy một ngôi chùa, nơi mà người dân đến để thực hành sự súng bài mê tín của họ. Những ngôi chùa này lại được giữ gìn rất bẩn thỉu và xấu xí; những người giữ chùa ở đó rất tham lam, họ lấy hết các lễ vật cho nhu cầu cá nhân và cho những người vợ, con của họ, và không chịu săn sóc ngôi chùa và những bức tượng”,[5] de Rhodes nói về ấn tượng của mình đối với những ngôi chùa mà ông có dịp nhìn thấy ở Đàng Ngoài.
Ông cho rằng đạo Phật đã lừa dối con người theo hai cách. Thứ nhất là khuyến khích người ta thờ cúng những hình tượng, và thứ nhì, còn tệ hơn, là làm người ta tin vào sự vô thần. Điều thứ nhì này có lẽ liên quan đến thuyết nhân quả và luân hồi (đầu thai hay chuyển kiếp) của đạo Phật. Điều này khiến khi de Rhodes truyền đạo ở An Nam gặp trở ngại vì người dân rất khó tin vào sự tồn tại của Chúa.
Để làm người dân không theo đạo Phật mà đến với Cơ Đốc giáo, ông chọn ba cách đả phá đạo này: thứ nhất là công kích Phật Thích Ca; thứ nhì là chứng minh rằng người Tàu đã nhầm lẫn đạo Phật là một tôn giáo như thế nào; và thứ ba là thuyết phục người dân tin vào chủ nghĩa hữu thần và thuyết độc thần.
De Rhodes hết sức phản đối điều phi lý của thuyết luân hồi. Ông lập luận nếu một người được chuyển kiếp thì sao họ không nhớ gì về chuyện ở kiếp trước?Thứ hai, nó trái với lời dạy của Bụt là tất cả các linh hồn đều không tránh khỏi cái chết. Một linh hồn chết đi thì làm sao nó có thể chuyển kiếp được? Và thứ ba, làm sao mà một linh hồn đã chuyển kiếp rồi lại có thể trở về nhà như niềm tin phổ biến của người Việt và người Tàu, ví dụ như việc thờ cúng người quá cố?
Đối với đạo Lão, de Rhodes cho rằng đó là thứ đạo ngu dốt và nguy hiểm nhất, bởi vì nó thờ phụng quỷ sứ. Ở Tonkin, ông cho rằng người dân hết sức mê tín như khi dựa vào những đạo sĩ để chữa bệnh. Ông kể các đạo sĩ nhúng chân gà vào nước sôi rồi dựa vào đó xem người bệnh mắc phải bệnh gì và cách chữa như thế nào, người bệnh còn không được nghỉ ngơi vì các pháp sư rung chuông để xua đuổi tà ma suốt đêm.
Ông nói rằng những đạo sĩ hầu như bị mù và vì nghèo nên làm nghề này để kiếm sống. Và khi họ thất bại khi cứu người bệnh thì họ lại tổ chức những buổi lễ cầu hồn tốn kém, linh hồn hiện về nhập vào một người khác rồi đòi hỏi nhiều đồ cúng tế.
Trong khi đó, de Rhodes lại hết lòng ca ngợi về sự mầu nhiệm của các đồ vật của Cơ Đốc giáo. “Với ý nghĩa của thánh giá và nước thánh, những vị thánh sẽ xua đuổi ma quỷ như một điều hiển nhiên và trị lành tất cả các thứ bệnh. Chỉ cần cho người ta bốn đến năm giọt nước thánh thì người mù sẽ sáng mắt và kể cả cứu được hai người đang hấp hối”, ông nói về sức mạnh của đạo Cơ Đốc.
Khi de Rhodes mang Cơ Đốc giáo vào Việt Nam thì đạo của ông rất khó hòa nhập với Tam giáo. Vốn dĩ ba tôn giáo này đã nhập vào một cái kiềng ba chân vô cùng vững chắc. De Rhodes muốn thuyết phục được người dân cải sang đạo Cơ Đốc thì chỉ còn cách bác bỏ hoàn toàn Tam giáo.
Đối với đạo Khổng, ông thừa nhận những mặt lợi từ quan điểm về đạo đức, xã hội cũng như trong việc trị nước, rằng nó không hoàn toàn trái với Cơ Đốc giáo. Tuy nhiên, ông cho rằng nên tôn trọng Khổng Tử như một người thầy là đủ, đừng xem ông ta như một thánh nhân vì ông ấy không biết hoặc không dạy (nếu ông biết) cho mọi người về sự tồn tại của Chúa Trời.
“Những người trẻ cũng như già ở Tonkin tôn thờ Khổng Tử như thánh thần, và họ khắc sâu lòng tôn kính này vào trong những đứa con của mình. Trong ngày đầu tiên học chữ Nho, người thầy trước khi nhận học trò sẽ bắt con trẻ quỳ gối để chỉ chúng cách khấn vái và cầu cạnh sự giúp đỡ của Khổng Tử. […] Trước các kì thi, những thí sinh sẽ cầu khẩn và nguyện đền ơn Khổng Tử nếu đỗ đạt. Khi có kết quả tốt, họ lập một bàn thờ để tạ ơn. Thứ mê tín ngu xuẩn này rất thịnh hành ở những người ngoại đạo”,[6] de Rhodes lên án về cách thực hành Khổng giáo ở Tonkin.
Chủ yếu những nhận định của de Rhodes về đạo Lão là dựa trên những quan sát thực tế của ông. Chúng ta biết rằng khi đạo Lão vào Việt Nam đã được chia ra thành nhiều phái khác nhau với những cách hành đạo đa dạng, phức tạp.
De Rhodes cũng không phải là người thông thạo các học thuyết thần học phương Đông. Ta biết điều này có lẽ vì trong các cuộc tranh luận với các nhà nho, nhà sư thì de Rhodes luôn cần sự trợ giúp của cộng sự, Ignatius, là một nhà nho An Nam. Những nhận định của ông chủ yếu là công kích đến các thực hành trong đời sống mà ông cho là những thứ mê tín.
De Rhodes và chữ Quốc ngữ
Theo cố linh mục Đỗ Quang Chính, cuốn Từ điển Việt – Bồ – La của de Rhodes có thể được viết từ năm 1636 đến năm 1645. Bởi vì, trước 1636 thì kỹ năng sử dụng dấu câu của de Rhodes chưa thật sự nhuần nhuyễn, còn từ sau năm 1645 thì ông lại đang trên đường trở về Rome.
Khoảng thời gian 1636 và 1645 là lúc de Rhodes giảng dạy tại Ma Cao sau khi bị trục xuất ở Đàng Ngoài cho đến lúc ông trở lại Đàng Trong bốn lần và bị trục xuất vĩnh viễn.
Theo cố linh mục Chính, de Rhodes đã tận dụng công trình Latin hóa tiếng Việt của hai giáo sĩ lúc đó là Gaspar do Amaral và António Barbosa để thực hiện cuốn từ điển này.
Gaspar do Amaral, là một giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha, lớn hơn de Rhodes một tuổi. Ông đến Tonkin cùng với các giáo sĩ khác vào năm 1631, sau khi de Rhodes bị chúa Trịnh trục xuất. Do Amaral truyền đạo ở Tonkin khoảng bảy năm thì quay về Macao. Ông qua đời ngày 23/12/1645 vì đuối nước do thuyền bị đắm trên đường trở lại Tonkin lần thứ hai.
Vào năm 1632, do Amaral được biết đến là người khả năng ký âm tiếng Việt bằng bảng chữ cái tốt hơn so với de Rhodes lúc đó. De Rhodes đã dựa vào cuốn Từ điển Việt – Bồ – La (Dicciondrio anamita-portugues-latim) của do Amaral và cuốn Từ điển Bồ – Việt (Diccionario portugues-anamita) của giáo sĩ Dòng Tên António Barbosa, người đã đến Tonkin từ năm 1636 cho đến năm 1642. Cả hai cuốn từ điển này đều đã bị thất lạc.
Năm 1651, với sự hỗ trợ của Bộ Truyền giáo, de Rhodes đã xuất bản quyển Từ điển Việt – Bồ – La với quyển Phép giảng tám ngày tại Rome. Quyển từ điển gồm ba phần tách biệt: phần thứ nhất có 31 trang viết về ngữ pháp tiếng Việt, phần thứ nhì là từ điển, và phần thứ ba là mục lục các từ Latin đã xuất hiện trong phần thứ hai – nó giống như là một từ điển Latin – Tiếng Việt những không có phần mở rộng nghĩa.
Về sau hệ thống bảng chữ cái tiếng Việt được hoàn thiện hơn trong quyển từ điển không xuất bản Việt – Latin của Giám mục Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc), và hai quyển từ điển (Việt – La, Ý – Việt) của Giám mục Jean Louis Taberd. Hai quyển từ điển sau của Taberd được xuất bản lần đầu ở Ấn Độ vào năm 1838 và tái bản ở Việt Nam vào năm 1877 sau khi Pháp chiếm các tỉnh Nam Kỳ.
Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ký sắc lệnh áp dụng chữ Quốc ngữ vào các kỳ thi quốc gia kể từ năm 1909. Năm 1918, triều đình nhà Nguyễn dưới áp lực của người Pháp đã bãi bỏ nền Nho học thay bằng chữ Quốc ngữ.
Alexandre de Rhodes là một trong những giáo sĩ đã đóng góp lớn trong việc phiên âm tiếng Việt thành chữ Quốc ngữ hôm nay. Ông đã cống hiến gần như một nửa cuộc đời của mình ở An Nam và An Nam luôn nằm trong trái tim của de Rhodes: “Thân xác này tuy rời khỏi Đàng Trong nhưng trái tim này đã ở lại mãi mãi với đất An Nam”.
Ngày 20 tháng 12 năm 1645, de Rhodes lên tàu từ Ma Cao về Rome, kết thúc hành trình dài đến 27 năm ở Ấn Độ và vùng Viễn Đông xa xôi. Mất ba năm rưỡi, ông mới về đến Rome vào ngày 27/6/1649. Mười một năm sau, ông qua đời tại thành phố Isfahan, Ba Tư, nay thuộc Iran.
___
Tài liệu tham khảo:
- Mission and Catechesis, Alexandre de Rhodes & Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam, Peter C. Phan, 1998.
- Ông Alexandre de Rhodes (1591 – 1660), Hoa Bằng – Tiên Đàm, Tri-Tân Tạp-Chí.
- Alexandre de Rhodes có phát minh ra chữ Quốc ngữ, Alain Guillemin, Ngô Tự Lập dịch, đăng trên Văn Việt ngày 15 tháng Bảy năm 2018.
- Khảo về chữ Quốc ngữ, Phạm Quỳnh, Nam Phong Tạp-Chí, tháng 10 năm 1927.
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, 1919.
- Người Nhật ở Hội An thế kỷ XVI-XVII, Võ Văn Hoàng, Tạp chí Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, 2009.
Các trích dẫn:
[1] Xem trích dẫn gốc tại Divers voyages et mission du Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres Royaunmes de l’Orient, trang 22.
[2] Xem trích dẫn gốc tại Divers voyages …, trang 53.
[3] Xem trích dẫn gốc tại… Divers voyages, trang 72.
[4] Xem trích dẫn gốc tại Relation des progrez de la Foy au Royaume de la Cochinchine és années 1646 & 1647… (1653), Metello Saccano, trang 8.
[5] Xem trích dẫn này tại Histoire du Royaume de Tunquin, et des grands progez que la predication… (1651), trang 69.
[6] Xem trích dẫn này tại Histoire du Royaume, trang 63 – 64.